Vâng, đường dây 559, sau này là đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tiếng thét c.ă.m h.ờ.n của nhân dân miền Nam dưới ách kìm kẹp dã man của chế độ Mỹ – Diệm, từ Nghị quyết 15 năm 1959 của Trung ương đề ra nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
“Kiến trúc sư” con đường là Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Quân ủy Trung ương, người xuyên rừng thực hiện là đồng chí Võ Bẩm. “Tôi cũng không phải là người đề xuất và bảo vệ việc cơ giới hóa tuyến đường. Công đầu thuộc về ông Phan Trọng Tuệ và ông Đinh Đức Thiện” – Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên khẳng định như vậy.
Những năm 1964-1965, đường Trường Sơn lúc đó đã có cơ giới nhưng đội hình mới ở cấp tiểu đội. Sang năm 1966, toàn tuyến đã phát triển thành 100 xe nhưng kế hoạch vận chuyển đạt thấp, vì đường ùn tắc, xe bị c.h.á.y do b.o.m đ.ạ.n đ.ị.c.h. Trước tình hình đó, tháng 6-1966, Quân ủy Trung ương họp.
Tuy chưa là ủy viên Quân ủy nhưng Đồng Sỹ Nguyên vẫn được mời dự vì lúc đó ông là Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần phụ trách tiền phương. Trong cuộc họp, một số tư lệnh chiến trường cho rằng cần phải quay trở lại thời kỳ gùi thồ. Ông Phan Trọng Tuệ, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và ông Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiên quyết bảo vệ và ủng hộ vận tải cơ giới. Hai ông khẳng định, vận tải gùi thồ với 2.000 cây số thì riêng việc nuôi đội quân đó cũng đã khó, lấy gì để cung cấp cho chiến trường.
Tầm nhìn cử vị Tướng đường Trường Sơn Đồng Sỹ Nguyên
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương kết luận: Vẫn lấy cơ giới làm chính, kết hợp gùi thồ từng nơi, từng tuyến, từng lúc, giao cho Bộ tư lệnh 559 tìm biện pháp hữu hiệu thực hiện. “Đó là một kết luận chiến lược!”-niềm tự hào bừng lên trên khuôn mặt Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên.
Vậy vì sao chỉ một thời gian ngắn sau, ông được chọn làm Tư lệnh Bộ tư lệnh 559?
Đây là sự lựa chọn chính xác của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân ủy Trung ương. Đồng Sỹ Nguyên từng giữ chức Chính ủy Quân khu 4, một thời gian được cử sang làm Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Mặt trận Trung Lào.
Những vị trí đó đều liên quan đến đường Trường Sơn. Thời điểm năm 1966, ông lại đang là Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần phụ trách các binh trạm phía Nam. Dạo đó, máy bay Mỹ đánh phá Khu 4 rất á.c li.ệt, giao thông ách tắc. Đi kiểm tra các tuyến đường, thấy xe vận tải ta thường bị sa lầy, ông chủ trương đá hóa tuyến đường ở địa bàn quan trọng này. Ông huy động 2 vạn người của tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ra đập đá, làm đường từ Khe Ve đến nam Xuân Sơn (Quảng Bình) nối với Đường 20 – Quyết Thắng.
Từ ngã ba Khe Ve lên Mụ Giạ cũng được đá hóa, tất cả chỉ 3 tháng là xong. Từ đó, xe chạy trong mọi điều kiện thời tiết, mọi thời gian với đội hình cả tiểu đoàn. Sau thành công đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương điều ông kiêm chức Tư lệnh Bộ tư lệnh 559.
Đồng Sỹ Nguyên rất ít nói, trong hội nghị cũng như trong đời thường. Người ta chỉ thấy bóng dáng cao lớn của ông hòa vào trong trùng trùng điệp điệp bộ đội, thanh niên xung phong (TNXP) Trường Sơn. Người ta cũng chỉ thấy ông thâm trầm trong các hội nghị, buổi họp mặt, mừng công; thấy ông âm thầm, lặng người đ.au đ.ớn khi hay tin Chính ủy Bộ tư lệnh Trường Sơn Đặng Tính và nhiều bộ đội, TNXP ngã xuống, cũng như lúc biết con trai mình, một thiếu úy pháo binh h.y s.i.n.h ở pháo đài Đồng Đăng trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979.
Ông ít nói, không đại ngôn, song dấu ấn của ông với đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh không bao giờ phai mờ. Vậy, dấu ấn ấy là gì?
Phải khẳng định ngay, đó là chuyển Đoàn 559, rồi Bộ đội Trường Sơn thành một binh chủng hợp thành, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa vận tải phục vụ chiến trường. Tháng 1-1967, khi nhậm chức Tư lệnh Bộ tư lệnh 559, Đồng Sỹ Nguyên thực hiện ngay kết luận của Tổng Tư lệnh, Bí thư Quân ủy Trung ương. Giở Nghị quyết của Đảng ủy Bộ tư lệnh 559 ra xem, thấy biện pháp phòng tránh địch là chủ yếu, ông nghĩ, có lẽ vì điểm này mà Bộ đội Trường Sơn chưa tìm ra sức mạnh tổng hợp.
Sau khi đi kiểm tra thực địa một tháng, ông thấy bộ đội vận tải chưa chiến đấu hóa, chưa quân sự hóa, vẫn là vận tải thời bình. Còn các điều kiện để bảo đảm vận tải chiến lược chưa có, cầu đường thì độc đạo.
Một hôm, ông ngồi xe vận tải đi kiểm tra tuyến đường, đến trọng điểm Văng Mu thì máy bay Mỹ thả pháo sáng. Theo quy luật, khoảng 30 phút sau thì máy bay chiến đấu sẽ đến n.é.m b.o.m. Chiến sĩ lái xe cho xe vào bụi rậm và đề nghị ông xuống hầm trú ẩn.
Ông hỏi: “Tại sao đồng chí không tranh thủ pháo sáng đi thật nhanh để qua trọng điểm?”.
Anh chiến sĩ trả lời: “Tất cả cho chiến trường thì bọn em quán triệt, nhưng phải đưa hàng đến tận nơi. Còn c.h.ế.t mà hàng hóa không đến tay đồng đội mình thì cũng vô ích thôi”. Suốt đêm đó, ông không ngủ được vì câu nói của chiến sĩ lái xe ấy.
Sáng hôm sau, ông sang tiểu đoàn cao xạ ở Đường 128 thuộc khu vực Tà Hồng (Lào), cách trọng điểm Văng Mu 60km. Ông nói với chỉ huy tiểu đoàn rằng, đơn vị ti.ê.u di.ệ.t máy bay là để bảo vệ xe vận tải, chứ không phải t.iê.u di.ệt bất cứ mục tiêu nào. Chính vì chưa xác định được điều đó nên đơn vị còn để cho máy bay Mỹ đánh lúc nào thì đ.á.nh, bộ đội vận tải thì rời rạc, phân tán.
Sau ngày đó, ông điều các đơn vị cao xạ lên các trọng điểm, xây dựng thành trận địa chiến. Rồi công binh cũng phải ra trọng điểm, đào hầm trú ẩn hai bên đường để sẵn sàng làm nhiệm vụ san lấp đường. Từ đó, các trọng điểm của Đường Hồ Chí Minh hình thành binh chủng hợp thành: Phòng không – công binh – xe vận tải – thông tin…
Sau khi pháo cao xạ được điều đến các trọng điểm chặn đường bổ nhào thì máy bay địch cũng sợ, chúng ném b.o.m thiếu chính xác, chiến sĩ lái xe không phải trú ẩn mỗi khi có pháo sáng nữa. Nhưng để vượt qua mỗi trọng điểm cũng phải mất hai, ba tiếng đồng hồ, vì phải chờ công binh, TNXP ra san lấp. Rồi đ.ị.c.h quay lại đánh, ta lại san lấp, như dã tràng xe cát. Ông ra lệnh mở đường phụ hai bên để khi địch đánh phá đường chính, xe ta vẫn vượt trọng điểm một cách an toàn. Việc tắc đường ở các trọng điểm bị loại bỏ.
Đến năm 1972, trên tăng cường hai sư đoàn cao xạ và tên l.ửa vào Trường Sơn, ta đã làm đường ngụy trang dài 800km trong rừng để các trung đoàn vận tải đi ban ngày, tạo nên “trận đồ bát quái” có một không hai trên thế giới. Đó là nghệ thuật phá thế độc đạo kết hợp nghi binh, công sự ngụy trang mang dấu ấn đặc sắc của Đồng Sỹ Nguyên.
“Như vậy, sự hình thành binh chủng hợp thành đã tạo nên sức mạnh của Bộ đội Trường Sơn, làm cho vận tải thông suốt trên tuyến đường vô cùng ác liệt này?” – có lần tôi hỏi ông.
Ông gật đầu xác nhận. Ông nói, muốn có chính diện rộng, chiều sâu sâu phải xây dựng căn cứ chiến lược Đông – Tây Trường Sơn trên 3 nước Đông Dương. Căn cứ chiến lược này bao gồm 3 cao nguyên rộng lớn là Tây Nguyên của Việt Nam, Boloven của Lào và Đông Bắc Campuchia.
Xây dựng được căn cứ này xem như ta đã nắm chắc phần thắng, bởi đã có thế trận Trường Sơn “tiến vi công, thoái vi thủ”, phát triển nhanh và lớn, bỏ qua các binh trạm để tiến lên hình thành các binh chủng hợp thành cấp sư đoàn. Đến đầu năm 1973, Bộ đội Trường Sơn bỏ binh trạm, tổ chức hiệp đồng binh chủng cấp quân khu, cho xe chạy suốt Bắc-Nam trên Đường Hồ Chí Minh.
Chính nhờ có sự phát triển đó mà trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, với khẩu hiệu “Thần tốc, thần tốc hơn nữa…”, Bộ đội Trường Sơn dùng một sư đoàn ô tô chở cả Quân đoàn 1 từ miền Bắc vào tận Bù Đăng của Phước Long (nay là Bình Phước) chỉ mất có 8 ngày!
Sau năm 1975, dù trải qua các cương vị quan trọng khác nhau, song Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên vẫn luôn theo dõi sự phát triển của Binh đoàn 12, đơn vị tiếp nối Bộ đội Trường Sơn. Đặc biệt, ông luôn ủng hộ sự phát triển Đường Hồ Chí Minh trong giai đoạn công nghiệp hóa-hiện đại hóa hiện nay.
Ông kể: Năm 1973 vào thăm Bộ đội Trường Sơn, đồng chí Lê Duẩn có nói: Đây là con đường thống nhất Bắc-Nam, con đường đoàn kết 3 nước anh em, con đường tương lai giàu có. Cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, đồng chí Võ Văn Kiệt nêu ý kiến phải nâng cấp Đường Hồ Chí Minh thành Xa lộ Bắc Nam.
Ông nói: “Hạnh phúc cho chúng ta là trong những thời điểm lịch sử đã xuất hiện những nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược!”.
Còn tôi nghĩ, Bộ đội Trường Sơn, quân đội và nhân dân ta luôn tưởng nhớ đến Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, vị tư lệnh có tầm nhìn xa trông rộng.